Thứ Ba, 10 tháng 12, 2013
Tiết lộ bí mật trận địa pháo cổ lớn nhất Đông Dương
10.12.13
0 comments
Với trận địa pháo này, Pháp và Nhật đã từng coi là “bất
khả xâm phạm” tới vùng biển Vũng Tàu - Cần Giờ. Nhưng chúng không thể ngờ lại bị
quân và dân ta phá hủy, hóa giải thế trận này.
Đường lên trận địa pháo đồi Hoa Mai (nay thuộc núi Lớn, P.5,
TP.Vũng Tàu) quanh co, ôm theo triền núi. Nhìn xuống là biển xanh mênh mông,
nơi có những mái nhà ngói đỏ quanh năm lồng lộng gió. Trên lưng chừng núi cách
mặt biển khoảng 100m, 6 khẩu pháo gần như còn nguyên vẹn nằm hướng ra phía biển,
bị che phủ bởi cỏ tranh và các bụi cỏ dây leo. Bao quanh chỉ thấy cây rừng và
ngôi nhà gỗ nhỏ của ông bảo vệ già ngay đầu lối vào trận địa pháo. Nơi đây, một
thời lịch sử đã đi qua.
Trận địa “bất khả xâm phạm”
Vũng Tàu có một vị trí chiến lược khá thuận lợi về quân sự.
Chính vì vậy, song song với việc xây dựng chính quyền tại Vũng Tàu, thực dân
Pháp tiến hành xây dựng hệ thống đồn bốt, công sự, lắp đặt những trận địa pháo
trên núi Lớn, núi Nhỏ, nhằm bảo vệ Vũng Tàu, phòng thủ, khai thác địa hình chiến
lược này.
Trong vòng 15 năm, từ năm 1885 đến hết thế kỷ 19, Pháp mới
xây dựng được các pháo đài, các trại lính với hơn 1.000 quân chiếm đóng. Việc
hoàn tất các pháo đài trên núi Lớn, núi Nhỏ vào khoảng năm 1905. Hiện nay, giữa
lưng chừng núi, 6 khẩu pháo của Pháp với trọng lượng hơn 15 tấn vẫn còn nguyên
trên bệ. Pháo được bố trí rải hình vòng cung, mỗi khẩu cách nhau 17,5m, xung
quanh là hệ thống hầm hào giao thông, trong một khuôn viên rộng hơn 1ha. Xen giữa
các khẩu pháo là hầm trú ẩn. Các khẩu pháo từ bệ đến nòng đều giống nhau, có thể
quay được 306o nhờ hệ thống đĩa có răng gắn với bệ pháo cố định. Sáu khẩu pháo
nghếch nòng ra biển Đông phía Cần Giờ - TP.Hồ Chí Minh, bao quát án ngữ một
vùng cửa biển.
Sở dĩ Pháp đặt các khẩu pháo ở lưng chừng núi Lớn bãi Dâu với
mục đích bảo vệ Vũng Tàu, cửa biển Cần Giờ. Bởi khi đó, các tàu ra vào Sài Gòn
đều phải theo cửa biển Cần Giờ, đó là một vị trí thuận lợi trong phòng ngự tấn
công. Về mặt quân sự, Pháp sẽ kiểm soát được đường thủy trọng yếu ở vùng Đông
Nam Bộ. Mặt khác, Pháp nhắm đến việc độc quyền mua bán, trao đổi hàng hóa ở thị
trường Đông Dương. Nằm cách trận địa pháo không xa, dưới thung lũng kín đáo, là
một hầm thủy lôi (loại vũ khí quân sự có sức công phá lớn như sấm sét, dùng để
tiêu diệt các loại tàu phà chống phá dưới nước). Tuy cùng nằm ở một vị trí,
nhưng đây lại là hai công trình quân sự hoàn toàn khác nhau.
Tháng 10/1941, Nhật đổ bộ vào Vũng Tàu và nhanh chóng chiếm
vị trí quan trọng này. Lúc bấy giờ, bóng cờ chữ Nhật tròng đỏ nền trắng bay phấp
phới trên tòa Bạch Dinh. Khắp nơi trên núi Lớn, núi Nhỏ, Nhật xây dựng nhiều lô
cốt, hầm địa đạo, bố trí đại bác ở giữa lưng chừng núi. Nhật thả nhiều thủy lôi
để ngăn chặn sự đổ bộ của quân đồng minh Anh Mỹ. Một hệ thống thủy lôi
dày đặc phong tỏa vùng biển Cần Giờ - Vũng Tàu, đến nỗi không một tàu đồng minh
nào có thể cập bến Sài Gòn được. Số mìn phong tỏa bờ biển của Nhật từ 50
60 trái thủy lôi (mỗi trái nặng trên 100kg) mà Nhật đã gỡ ngòi chỉ còn thuốc.
Để có nơi chứa được số lượng thủy lôi nhiều vô số của mình,
năm 1944, Nhật đã thuê công nhân xây dựng một hầm chứa thủy lôi trong vòng 4
tháng. Hầm được xây theo hình vòm, khá kiên cố với bề dày dãy tường đá
khoảng 1m, cao 7m, dài 20m, cửa hầm làm bằng sắt. Thủy lôi do xe chở tới, mỗi
chuyến hai trái. Xe rùa đẩy thủy lôi vào hầm. Hầm thủy lôi được xây theo hình
vòm, trên nóc đổ đá và xi măng, cửa làm bằng sắt. Sau khi chiến tranh thế giới
thứ hai kết thúc, Nhật đầu hàng đồng minh. Chúng gỡ 32 trái thủy lôi dưới biển
cho vào hầm. Nhật rút, Pháp tiếp quản khu này và gìn giữ bằng cách cho gài lựu
đạn ngoài cửa hầm để bảo vệ.
Với hệ thống trận địa pháo này, thực dân Pháp từng coi Vũng
Tàu là nơi bất khả xâm phạm, có thể quán xuyến, bao quát toàn bộ vùng biển Vũng
Tàu. Nơi mà những người nông dân chân đất, áo vải làm cách mạng với gậy gộc là
chính, thì làm sao có thể bén mảng tới gần những nòng pháo luôn sẵn sàng nhả đạn
này. Nói gì đến chuyện họ có thể phá hủy chúng. Nhưng bọn chúng đã lầm.
Chiến dịch đánh chiếm hầm thủy lôi
Trong những năm kháng chiến chống Pháp lâu dài và gian khổ,
quân dân Vũng Tàu, xã đảo Long Sơn đã cùng với quân dân Biên Hòa, Bà Rịa (Vũng
Tàu lúc đó là một thị xã của tỉnh Bà Rịa), không những đánh bại những cuộc càn
quét dài ngày của địch vào chiến khu D, rừng Sác. Họ còn vận động tiến sâu vào
hậu địch đánh thắng nhiều trận oanh liệt. Xã Long Sơn của tỉnh Bà Rịa từng là
nơi xuất phát của những đoàn quân cách mạng, đánh sâu vào sào huyệt của thực
dân Pháp tại Vũng Tàu, lập nên những chiến công làm kinh hồn giặc. Trận tiến
công đánh chiếm hầm thủy lôi, phá hủy trận địa pháo là một trong những chiến
công như thế. Việc lấy thủy lôi trở thành một chiến dịch với sự tham gia của
hàng trăm người, diễn ra hoàn toàn vào buổi tối.
Từ Bà Trao (núi Nứa xã đảo Long Sơn), lực lượng vũ
trang và an ninh của ta đã ém quân tại vị trí bàn đạp là cù lao bến Đình rộng
500 mẫu, có rừng được che chở trước khi đột nhập vào Vũng Tàu. Có một điều quan
trọng và cũng hết sức thuận lợi là bao giờ núi Lớn địa bàn hoạt động của ta, mặc
dù Nhật ra sức càn đi quét lại, đóng đồn, lập bót dày đặc ở khu vực này. Bởi vì
gần ba ngàn người dân ở đây một lòng hướng về kháng chiến, tìm mọi cách hỗ trợ
cho hoạt động kháng chiến của ta. Dựa vào dân, lực lượng vũ trang đã nhiều
lần đột nhập vào hầm đạn và hầm thủy lôi núi Lớn, đánh chiếm khí tài (vũ khí
chiến đấu) của địch để trang bị cho ta.
Việc lấy thủy lôi trở thành một chiến dịch, lực lượng ta với
hàng trăm người tham gia. Công việc này thường diễn ra vào lúc chiều tối. Kế hoạch
đã được chuẩn bị chu đáo với tổ ám hiệu, canh gác, tháo gỡ lựu đạn, chuyển tải
nuôi quân… Theo kế hoạch, khi có ám hiệu khói lửa, các chuyến ghe của ta ở Long
Sơn từ từ cập sang bến Đá Vũng Tàu.
Tổ canh gác chia làm hai nhóm, một từ đầu dốc bến Đá và một
gần khu vực tượng Phật Bà bây giờ. Tổ tháo gỡ lựu đạn sẽ cùng với đặc công, du
kích, cảm tử quân Thắng Nhì vào hầm thủy lôi, người soi đèn, người gỡ lựu
đạn mở cửa, sao cho khi lấy xong gài lại như cũ. Nhóm chuyển tải thủy lôi ra
ngoài với sự chỉ huy của đồng chí Ba Giao và đồng chí Uông gồng gánh nhau trèo
lên sườn núi trong đêm tối mịt mù, khiêng thủy lôi xuống núi, chuyển thẳng ra
ghe đồng chí Năm Tạc đã chờ sẵn, chở thuốc nổ về bến an toàn. Tổ lương thực gồm
các bà, các chị lo vận chuyển thức ăn và dầu đốt đèn cho mọi người.
Dân quân xã Long Sơn, công binh xưởng Bà Rịa và cảm tử quân
Vũng Tàu đã vận chuyển trung bình một lần hai trái thủy lôi ra khỏi hầm. Cuối
tháng 6/1947, sau khi địch rút khỏi bót bến Đình, các hoạt động cơ sở của ta dễ
dàng hơn. Trong thời gian này, được sự giúp đỡ của ban hành động, tổ quân báo
thị xã, cùng với công sức của đồng bào phường Thắng Nhì, Bà Trao và xã Long
Sơn, ban công binh xưởng Bà Rịa đã kiên trì lấy được 30 trái thủy lôi trên núi
Lớn. Đây là kết quả của hơn 6 tháng bí mật phá hầm và vận chuyển thủy lôi của
quân dân Vũng Tàu.
Hương Lam - Hoa Nguyên
Theo Người Đưa Tin
Thứ Ba, 3 tháng 12, 2013
Kể chuyện Chu Ân Lai đã bảo vệ 8 cán bộ trong thời kỳ cách mạng
Trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, Thủ tướng Chu Ân Lai là người có công lao rất lớn trong việc bảo vệ các cán bộ cao cấp của Trung Quốc khỏi sự bức hại của “Bè lũ bốn tên”. Trong số đó phải kể đến 8 cán bộ cao cấp được ông bảo vệ bằng cách chuyển đến “lao động” tại Nhà máy ôtô số 27 ở Bắc Kinh. Những cán bộ này sau khi Cách mạng văn hóa kết thúc đã quay trở lại công tác và nắm giữ những chức vụ cao cấp trong Đảng và chính quyền trung ương Trung Quốc…
Tháng 9/1968, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc phái một nhóm nhân viên tin cậy đến Nhà máy ôtô số 27 (Bắc Kinh) để thực thi một nhiệm vụ đặc biệt. Đầu năm 1969, nhóm này nhận được chỉ thị từ trung ương về việc sắp xếp cho một vài cán bộ bị chèn ép, bức hại trong Cách mạng văn hóa, không thể công tác bình thường về làm việc tại Nhà máy ôtô số 27. Mệnh lệnh này được ban hành theo kiến nghị của Thủ tướng Chu Ân Lai.
Bắt đầu từ sau khi “phái tạo phản” ở Thượng Hải giành được quyền lực trong Đảng và chính quyền ở thành phố Thượng Hải, cuộc đấu tranh giành quyền lực đã lan ra khắp Trung Quốc. Rất nhiều lãnh đạo Đảng và chính quyền ở các tỉnh, thành phố, khu vực không chỉ ngày đêm bị những phần tử thuộc “phái tạo phản” phê bình mà an toàn tính mạng của họ cũng bị đe dọa nghiêm trọng.
Lấy lý do triệu tập kỳ họp bất thường, trung ương Đảng Trung Quốc đã đưa một số cán bộ chủ chốt về Bắc Kinh và sắp xếp phân tán họ ở một vài nơi khác nhau. Tuy nhiên không biết nhờ đâu mà “phái tạo phản” đã có được thông tin nên chỉ trong một đêm, một số cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh được giấu ở một căn nhà thuộc phố Nam Trường (Bắc Kinh) đã bị bắt đi. Những người khác được bố trí ở các nhà khách của Văn phòng thường trực Trung ương Đảng và Bộ Tổ chức trung ương cũng bị chung số phận.
Sau khi sự việc xảy ra, Chu Ân Lai một mặt ra lệnh cho lực lượng cảnh vệ thành phố Bắc Kinh phải nhanh chóng tìm kiếm những người đã bị bắt mang đi, mặt khác ông lập tức báo cáo tình hình với Mao Trạch Đông đồng thời nghiên cứu tìm ra biện pháp nghiêm ngặt hơn để bảo vệ những cán bộ cao cấp chưa bị “phái tạo phản” bắt giữ.
Được sự đồng ý của Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đã đưa một số cán bộ cao cấp đến Nhà máy ôtô số 27, Nhà máy ôtô Nam Khẩu và Nhà máy in Tân Hoa với danh nghĩa “đưa đi lao động” để bảo vệ họ. Những đơn vị trên đều thuộc quyền quản lý của lực lượng cảnh vệ trung ương. Đây là lực lượng trung thành tuyệt đối với Mao Trạch Đông. Trước khi chuyển những cán bộ này đến nơi, Chu Ân Lai đã ra lệnh cho đơn vị tiếp nhận họ phải hoàn thành tốt các công tác chuẩn bị bao gồm:
Thứ nhất: Phải tuyệt đối bảo đảm bí mật và bảo vệ tuyệt đối những cán bộ đó không bị bắt đi hay bị làm phiền trong thời gian họ ở nhà máy.
Thứ hai: Thu xếp cuộc sống cho những cán bộ được bảo vệ bao gồm chỗ ăn ở, chăm sóc y tế, phương tiện đi lại.
Thứ ba: Căn cứ điều kiện sức khỏe của từng người để sắp xếp những công việc nhẹ nhàng phù hợp thuận lợi cho việc tiếp cận với quần chúng, công nhân hay hoạt động một số công tác đoàn thể.
Thứ tư: Trong trường hợp họ có yêu cầu hay gặp khó khăn gì hoặc muốn liên lạc với trung ương phải ngay lập tức gửi lên trung ương.
Những yêu cầu chuẩn bị trên được đích thân Chu Ân Lai kiểm tra và theo dõi rất chặt chẽ. Chu Ân Lai đã từng phát biểu rằng: “Truyền thống lịch sử cách mạng là thuộc về một lớp người, bảo vệ cán bộ về một ý nghĩa nào đó cũng chính là bảo vệ truyền thống cách mạng và lịch sử cách mạng”.
Bắt đầu từ năm 1969, với danh nghĩa trung ương, Chu Ân Lai đã thu xếp để 8 cán bộ cao cấp được bảo vệ tại Nhà máy ôtô số 27 (Bắc Kinh). Những cán bộ được bảo vệ lúc đó bao gồm :
Từ Hướng Tiền – Nguyên soái nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Phó chủ tịch Quân ủy trung ương.
Thượng tướng Trương Tông Tốn – Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm Cục trưởng Cục Huấn luyện Bộ tổng tham mưu Giải phóng quân nhân dân Trung Quốc.
Trung tướng Vương Ân Mậu – Bí thư thứ nhất Quân ủy Khu tự trị Ngô Duy Nhĩ, Tư lệnh Quân khu, Bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân khu Tân Cương.
Giang Hoa – Bí thư Ban bí thư Cục Hoa Đông thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Chính hiệp tỉnh Chiết Giang, Chính ủy Quân khu Nam Kinh.
Giang Vị Thanh – Bí thư Ban bí thư Cục Hoa Đông thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Chính hiệp tỉnh Giang Tô, Chính ủy Quân khu Nam Kinh.
Trương Bình Hoa – Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Chính hiệp tỉnh Hồ Nam, Ủy viên thường vụ Cục Trung Nam thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư Ban bí thư Cục Trung Nam, Phó bộ trưởng Bộ Tuyên truyền.
Hoàng Âu Đông – Tỉnh trưởng tỉnh Liêu Ninh, Bí thư Ban bí thư Cục Hoa Đông thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
Chu Đức Hải – Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, Phó tỉnh trưởng Tỉnh Cát Lâm, Chính ủy Quân khu Diên Biên.
Những cán bộ cao cấp được bảo vệ tại Nhà máy ôtô số 27 khi đó có người đã 68 tuổi và trẻ nhất cũng đã 56 tuổi. Họ đều được xem là tài sản quý giá và là những lãnh đạo trụ cột của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Căn cứ tinh thần chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai, tất cả nhân viên thuộc Nhà máy ôtô số 27 phải đảm bảo bí mật những thông tin về sự có mặt của những cán bộ cao cấp trên, tuyệt đối không được tiết lộ ra ngoài. 8 cán bộ cao cấp trên được bố trí ở trong khu nhà tiện nghi nhất của nhà máy, vốn được xây dựng dành cho các chuyên gia Liên Xô. Khu vực này được tăng cường thêm một phòng trực ban để bảo vệ hoặc liên lạc với trung ương trong trường hợp cần thiết.
Thời gian đầu, ban ngày đều có cảnh vệ bên cạnh những cán bộ trên khi họ làm việc tại nhà máy và ban đêm thì có lực lượng tuần tra xung quanh nơi ở. Trong trường hợp cần chăm sóc y tế sẽ có bác sĩ của nhà máy đến tận nơi để khám bệnh hoặc chuyển trực tiếp đến Bệnh viện 301 (bệnh viện chuyên dành cho các lãnh đạo trung ương) để chữa trị.
Sau khi được chuyển đến Nhà máy ôtô số 27, trong số các cán bộ cao cấp có Nguyên soái Từ Hướng Tiền do tuổi đã cao và sức khỏe yếu nên ông tự sắp xếp công việc, còn những người khác đều tham gia công việc sản xuất của Nhà máy ôtô số 27 như những công nhân bình thường. Ban đầu họ được giao công việc nhổ đinh khỏi những tấm ván gỗ sau đó theo yêu cầu họ được chuyển sang một công việc mang tính kỹ thuật hơn là xưởng gia công.
Công việc của nhóm cán bộ cao cấp là mài giũa các chi tiết của xe ôtô. Chỉ trong một thời gian ngắn họ đã học và sử dụng thành thạo các máy móc và kết quả công việc không kém gì so với những công nhân thực thụ. Trong số đó phải kể đến Trung tướng Vương Ân Mậu, vốn xuất thân là một công nhân quốc phòng nên ông nhanh chóng học và sử dụng thành thạo những máy móc hiện đại nhất của nhà máy lúc đó.
Mỗi ngày các cán bộ cao cấp đều làm việc đủ 8 tiếng đồng hồ như các công nhân bình thường. Ngoài công việc hàng ngày ở nhà máy, họ còn rất hòa đồng và chủ động tiếp cận trò chuyện học hỏi các công nhân. Và theo yêu cầu của công nhân, những cán bộ cao cấp thường kể lại các câu chuyện về cuộc Vạn lý trường chinh, chiến tranh kháng Nhật và chiến tranh giải phóng. Ngoài ra họ còn góp ý cho các cán bộ của nhà máy về các biện pháp quản lý sản xuất, tiết kiệm nguyên liệu…
Ngày 17/10/1969, Lâm Bưu đưa ra “Thông báo khẩn cấp về việc tăng cường chuẩn bị đề phòng địch tấn công bất ngờ”, theo đó những cán bộ cao cấp đang phải “lao động” như Từ Hướng Tiền, Giang Hoa, Giang Vị Thanh, Chu Đức Hải… sau khi nhận được thông báo phải rời khỏi nơi đang “lao động” nhưng không ai được biết họ sẽ bị đưa đến đâu. Nguyên soái Từ Hướng Tiền là người đầu tiên rời khỏi Nhà máy ôtô số 27 và cuối cùng là Trương Tông Tốn, Vương Ân Mậu đều rời đi vào năm 1972. Sau khi Cách mạng văn hóa kết thúc, những cán bộ cao cấp trên đều được phục hồi công tác:
Nguyên soái Từ Hướng Tiền được bổ nhiệm chức vụ Phó thủ tướng Quốc vụ viện kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1978-1980), Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương (1983-1988).
Trương Tông Tốn: Ủy viên Ủy ban Quốc phòng, Ủy viên Ủy ban Chính hiệp toàn quốc, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Vương Ân Mậu: Phó chủ tịch Ủy ban Chính hiệp toàn quốc.
Trương Bình Hoa: Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền (1977-1978), Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Giang Vị Thanh: Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Chính hiệp toàn quốc.
Hoàng Âu Đông: Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Chu Đức Hải: Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Chính hiệp toàn quốc.
Tháng 1/1975, Giang Hoa được bổ nhiệm làm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và năm 1980, ông được giao phụ trách việc xét xử tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu, Giang Thanh…
Ngoài 8 người trên, trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai còn chỉ đạo, bố trí cho hơn 10 cán bộ cao cấp, học giả và nhân sĩ có uy tín khác được bảo vệ an toàn tại Nhà máy ôtô số 27 (Bắc Kinh)
Theo báo công an nhân dân